Nghệ thuật dân gian là một phần rất quan trọng trong nền văn hóa của cả một dân tộc. Việt Nam cũng vậy. Mỗi vùng miền, mỗi dân tộc đều có những môn nghệ thuật dân gian riêng biệt và vô cùng đặc sắc, tạo nên bức tranh tổng hòa về nghệ thuật dân gian Việt Nam đa dạng và quý giá. Cùng tìm hiểu 10 loại hình nghệ thuật dân gian tiêu biểu sau đây.
Chèo
Chèo là loại hình văn hóa nghệ thuật dân gian có từ lâu đời, chủ yếu phát triển ở khu vực đồng bằng Bắc Bộ. Sân khấu diễn xướng thường là ở sân đình vào các dịp lễ tết. Thể loại này là sự kết hợp khéo léo giữa lối nói ví von, giàu tính tự sự, trữ tình và ngôn ngữ đa nghĩa, đa thanh, cùng chất giọng hát luyến láy, nhấn nhá của người diễn.
Các vở chèo thường được sáng tác dựa trên từ những câu chuyện cổ tích, những tích truyện truyền miệng về những mối tình oan trái, hay những con người đáng thương trong xã hội. Nội dung của nó mang giá trị hiện thực sâu sắc, đề cao những phẩm chất đạo đức cao quý như đức hy sinh, lòng dũng cảm, sự trung thành, chung thủy,… nên dù nội dung không phải là thực tế nhưng vẫn gây xúc động và để lại ấn tượng sâu sắc cho khán giả.
Chèo – nghệ thuật sân đình
Cải lương
Nếu như chèo nổi tiếng ở miền Bắc thì cải lương có vẻ phổ biến hơn ở trong miền Nam. Nội dung của các vở cải lương là từ các câu chuyện nổi tiếng như Kim Vân Kiều truyện, truyện Lục Vân Tiên, tích Lưu Bình – Dương Lễ, Lan và Điệp,… chiều theo thị hiếu của khán giả như thế nào. Phong cách của cải lương là các nhạc khí giân dan kết hợp với giọng hát dân ca, tạo nên nét đặc trưng khác biệt và cũng là điểm thu hút khán giả.
Hát ca trù (hát ả đào)
Đây là bộ môn nghệ thuật có nhiều thăng trầm trong lịch sử, phổ biến vào khoảng thể kỉ 15. Thường có các phường hát ả đào, phục vụ các khách chủ yếu là những người có chức quyền, thuộc giới thượng lưu. Thể loại này là hát nói kết hợp nhịp trống và phách, chủ yếu nói về tình yêu nam nữ, các cuộc tình ngang trái…
Tuồng
Nói đến tuồng thì nổi tiếng nhất là ở khu vực Trung Bộ, những tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh,… Tuồng thường kể lại những tích truyện lịch sử, về các danh tướng, các biến cố của các triều đại. Thường người diễn được trang điểm rất nổi bật, “cá tính hóa” với các màu sắc để phân biệt vai diễn: màu đỏ là trung thần, xám là nịnh thần, xanh lục là hồn ma và đen là người thật thà. Cách nhá chữ, ngắt chữ, lên, xuống giọng cho phù hợp với tính cách nhân vật đã tạo nên nhiều lối nói khác nhau như bóp, ai, đạp, xuân nữ… Khi nói sẽ có nhạc hòa theo.
Hát Xoan
Hát xoan là loại hình nghệ thuật giân dan xuất phát từ đất tổ vua Hùng – Phú Thọ. Hát xoan là sự phối hợp nhịp nhàng của hát, múa, diễn xuất, thường biểu diễn trong các lễ hội đầu năm, khi mùa xuân đến. Theo các tin tức đã đưa, hát xoan đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại vào ngày 24/11/2011.
Dân ca quan họ Bắc Ninh
Nhắc đến quan họ là chắc chắn phải nói đến Bắc Ninh và hội Lim. ân ca quan họ là lối hát đối đáp giữa nam và nữ. Thường các buổi hát quan họ được tổ chức vào mùa xuân hoặc mùa thu khi có lễ hội, hát đối đáp giữa hai người nam – nữ hoặc giữa các cặp nam – nữ với nhau. Nội dung các khúc hát nói về tình cảm đôi lứa, tình yêu quê hương đất nước.
Hội Lim hát quan họ ở Bắc Ninh
Múa rối nước
Rối nước là loại hình nghệ thuật dân gian độc đáo của các tỉnh vùng đồng bằng Bắc Bộ. Thường diễn tả lại các hoạt động của nhà nông như làm ruộng, đánh cá, giã gạo, chăn vịt,… và các câu chuyện cười trong đời sống hàng ngày. Dưới bàn tay điều khiển tài hoa của các nghệ nhân, múa rối nước phản ánh một cách sinh động và chân thực cuộc sống người dân.
Hát then
Hát then là âm nhạc của người Tày, Nùng, mang màu sắc tín ngưỡng. Mọi người sẽ quây quần bên bếp lửa trong nhà sàn, phụ nữ hát, đàn ông đệm đàn. Những cuộc hát then thường khá dài và kết hợp cả nhảy múa, diễn.
Những loại hình nghệ thuật dân gian trên đều là những di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo tồn và phát triển. Nếu bạn chưa từng quan tâm đến nghệ thuật dân gian, hãy thử thưởng thức một lần để cảm thấy văn hóa Việt Nam ta giàu đẹp đến nhường nào.